Thursday, November 21, 2024

Mùa Đông nguyên tử… Đang đến gần nhân loại?


Điều không thể tưởng tượng được đã xảy ra. Ukraine, được trang bị vũ khí tiên tiến của phương Tây, đã chính thức tấn công sâu vào lãnh thổ Nga. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đáp trả bằng một tuyên bố đáng ngại, viện dẫn học thuyết hạt nhân mới được ký của mình. Sự leo thang này đã phá vỡ sự ổn định toàn cầu, đưa thế giới đến gần một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện.

Putin đã nói rõ: bất kỳ quốc gia nào hỗ trợ Ukraine tấn công trên đất Nga sẽ là mục tiêu hợp pháp để trả đũa hạt nhân. Kỷ nguyên chiến tranh thông thường đã kết thúc. Chào mừng đến với kỷ nguyên của chủ nghĩa hạt nhân, nơi mọi quyết định đều có thể là quyết định cuối cùng của nhân loại.

CUỘC TẤN CÔNG ĐÃ THAY ĐỔI MỌI THỨ

Trong một cuộc leo thang gây sốc, Ukraine đã xử dụng hỏa tiễn ATACMS do Hoa Kỳ cung cấp để tấn công các mục tiêu của Nga. Đây không chỉ là một cột mốc quân sự mà còn là một sự thay đổi địa chính trị gây chấn động. Đối với Điện Cẩm Linh, đây là hành động chiến tranh không chỉ của Ukraine mà còn của chính NATO.


Phản ứng của Nga là ngay lập tức. Putin tuyên bố các cuộc tấn công là vi phạm ranh giới đỏ của Nga, viện dẫn học thuyết hạt nhân mới của ông, coi hành động xâm lược như vậy là cuộc tấn công chung của Ukraine và những người ủng hộ phương Tây. Hậu quả từ tuyên bố này có thể nhấn chìm toàn bộ thế giới trong cơn ác mộng hạt nhân.


HỌC THUYẾT HẠT NHÂN CỦA PUTIN: QUY TẮC CHIẾN TRANH MỚI

BM

Putin đã xóa bỏ hàng thập kỷ kiềm chế hạt nhân. Học thuyết của ông rất tàn nhẫn: Bất kỳ hành động xâm lược nào trên lãnh thổ Nga liên quan đến vũ khí do phương Tây cung cấp đều sẽ biện minh cho hành động trả đũa hạt nhân.


Điều này áp dụng cho bất kỳ quốc gia nào cung cấp vũ khí.


Hoa Kỳ, Đức, Ba Lan và các quốc gia NATO khác cung cấp vũ khí cho Ukraine giờ đây có thể thấy mình nằm trong tầm ngắm hạt nhân của Nga. Học thuyết này biến chiến trường Ukraine thành điểm nóng toàn cầu, khiến mọi đồng minh NATO đều có thể trở thành mục tiêu tiềm tàng.


TÍNH TOÁN CỦA BIDEN: CÁI GIÁ CỦA VIỆC HỖ TRỢ UKRAINE

BM

Biden hiện phải đối mặt với một lựa chọn nghiệt ngã. Chính quyền của ông đã cung cấp hàng tỷ đô la vũ khí tiên tiến, bao gồm cả hỏa tiễn ATACMS đã gây ra cuộc khủng hoảng này. Liệu Biden có tăng gấp đôi, mạo hiểm đối đầu trực tiếp với một nước Nga có vũ khí hạt nhân không? Hay ông sẽ cắt giảm sự ủng hộ, mạo hiểm yếu kém và phản bội các nguyên tắc của NATO?


Mỗi động thái đều có thể làm thay đổi cán cân theo hướng xung đột toàn cầu. Biden phải đối mặt với quyết định quan trọng nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của mình—quyết định có thể định hình tương lai của thế giới tự do hoặc đẩy thế giới vào hỗn loạn.


NATO: TỪ PHÒNG THỦ ĐẾN MỤC TIÊU 

Bằng cách chấp thuận các cuộc không kích của Ukraine trên lãnh thổ Nga, NATO đã tiến gần hơn đến cuộc đối đầu trực tiếp với Nga. Tuyên bố của Moscow rằng họ đang "có chiến tranh" với NATO không còn chỗ cho sự mơ hồ. Sự tồn tại của NATO hiện đang bị đe dọa. Liên minh phải đối mặt với một lựa chọn mang tính sống còn: leo thang hoặc có nguy cơ sụp đổ.


MỘT CƠN ÁC MỘNG TOÀN CẦU ĐANG DIỄN RA


BM

Ở châu Á, Tàu cộng đánh giá lại tham vọng của mình. Ở Trung Đông, Iran và Triều Tiên đang chỉnh lại các chương trình hạt nhân của họ. Thị trường toàn cầu sụp đổ và sự bất ổn ngự trị tối cao.


Đây không còn chỉ là cuộc khủng hoảng của châu Âu nữa mà là cuộc tính toán toàn cầu đe dọa phá vỡ trật tự quốc tế. Mọi quốc gia đều đang sống trong bóng tối của cuộc xung đột có thể trở thành cuộc xung đột chết chóc nhất trong lịch sử loài người.


THỜI GIAN ĐANG ĐIỂM: CÓ ĐƯỜNG THOÁT KHỎI KHÔNG?

BM

Các nỗ lực ngoại giao đã bị đình trệ và cả hai bên đều kiên định. Biên độ sai sót rất mong manh. Những bước đi sai lầm hiện có thể khiến cuộc khủng hoảng leo thang thành thảm họa toàn cầu.


Nhân loại đang đứng trước ngã ba đường. Tuyên bố "Kẻ thù hạt nhân" của Putin là lời nhắc nhở lạnh lùng về việc hòa bình mong manh như thế nào. Các quyết định được đưa ra trong những ngày tới sẽ quyết định liệu nhân loại có lùi lại khỏi bờ vực hay lao xuống vực thẳm.


Giới tinh hoa đang lên kế hoạch cho Thế chiến thứ 3 'trong vài tuần'! Mạng sống của bạn chẳng có ý nghĩa gì với họ!


BM

Giới tinh hoa toàn cầu đang đóng vai Chúa với mạng sống của chúng ta, đẩy thế giới đến bờ vực hủy diệt để bảo vệ sự giàu có, quyền lực và những giấc mơ nghịch với địa đàng méo mó của họ. Họ không quan tâm đến bạn, gia đình bạn hay hàng tỷ sinh mạng đang bị đe dọa. Họ sẵn sàng biến thế giới thành tro bụi, nhấn chìm chúng ta vào mùa đông hạt nhân, tất cả chỉ vì lòng tham và sự kiểm soát của họ.


Thời gian của họ sắp hết, và họ biết điều đó. Với việc Trump đe dọa quyền lực của họ và các đế chế tham nhũng của họ bị phơi bày, giới tinh hoa đã đẩy nhanh chương trình nghị sự chết chóc của họ. Và bây giờ, với việc Biden chấp thuận cho Ukraine sử dụng vũ khí tầm xa của Hoa Kỳ bên trong nước Nga, họ đã vượt qua một ranh giới quá nguy hiểm, quá thảm khốc, đến mức nhân loại có thể không tồn tại được. Đây không phải là một cuộc diễn tập. Đây là hồi kết.


BM

72 phút trước Ngày tận thế: Thực tế về sự hủy diệt hạt nhân Bạn nghĩ rằng mối đe dọa của chiến tranh hạt nhân là quá mức? Hãy nghĩ lại đi. Các chuyên gia quân sự đồng ý: trong trường hợp xảy ra một cuộc trao đổi hạt nhân toàn diện, 60% dân số toàn cầu—NĂM TỶ NGƯỜI—sẽ chết chỉ trong hơn một giờ.


Đây không phải là một bộ phim phản địa đàng; mà là những gì những người theo chủ nghĩa toàn cầu đang hướng chúng ta đến bờ vực diệt chủng nhân loại.


BM

Nghe thật hãi hùng…


Monday, November 18, 2024

Nơi Có Một Tình Yêu

Bâng khuâng chân bước ngày trở lại
Trường xưa lớp cũ vẫn đợi chờ
Con chim nào hót bên cửa sổ
Thức dậy trong tôi thuở mộng mơ
Thương đứng chờ ngoài hành lang phòng giáo vụ, thầy chủ nhiệm khoa bước ra tươi cười trao cho Thương tập hồ sơ ra trường, rồi thắc mắc:
- Em nằm trong số ít người thi tốt nghiệp ra trường điểm cao, được quyền chọn nhiệm sở, sao em lại chọn về dạy ở quê nhà Gò Vấp?
Thương cúi đầu, nhìn bâng quơ ra sân trường tìm câu trả lời. Thầy lại nhìn Thương như đồng cảm:
- Thầy hiểu nỗi lòng của em khi muốn gần gia đình, nhưng các trường ngay trung tâm Sài Gòn cũng có xa xôi gì. Ở đây có nhiều trường điểm, cơ sở vật chất đầy đủ, các phụ huynh học sinh khá giả luôn tạo điều kiện tốt cho thầy cô giảng dạy, và em sẽ có cơ hội tiến thân trong nghề nghiệp, chuyên môn ?
Thương vẫn đưa mắt dưới sân trường, nói như cho chính mình:
-Thưa thầy, thầy cũng là một nhà giáo, nên cũng hiểu rằng ở thời buổi vật chất lên ngôi như hiện nay, thì những người chọn Sư Phạm là xuất phát từ trái tim chứ không phải cài đầu lý trí. Em không nghĩ đến chuyện tiến thân, mà chỉ mong được dạy dỗ học sinh trong quận của mình, như một sự đền đáp lại công ơn thầy cô đã cưu mang em.
Thầy gật gù, hiểu được quyết định của Thương, vỗ vai cô học trò trước khi chia tay:
-Thầy chúc em nhiều may mắn. Em sẽ trở lại thăm trường không? Chúng ta vẫn có dịp gặp lại nhau chứ?
Thương chào thầy rồi quay đi:
-Dĩ nhiên rồi thầy ạ. Trái đất tròn, huống gì đất Sài Gòn chật hẹp của chúng ta.
Thương đến Phòng Giáo Dục giữa buổi trưa cuối hè nóng như chảo rang. Trời vắng lặng khô khan, mấy cây trứng cá ngoài sân đứng im lìm đón chờ ngọn gió mát hiếm hoi. Thềm bậc tam cấp dẫn lên văn phòng lác đác những lá trứng cá khô làm bước chân Thương nghe như vui mừng nôn nao, rạo rực như tiếng lá khô vỡ vụn dưới chân. Trong phòng chỉ có một người đang ngồi cắm cúi ghi chép gì đó trên chồng giấy trắng, nghe tiếng Thương liền ngẩng đầu lên:
-Thương hả em? Vào đây ngồi nghỉ cho mát. Thầy cứ nghĩ ngày mai em sẽ đến.
Thương đứng sững lại, khi nghe giọng nói quen thuộc của thầy Tiến, thầy dạy môn văn khi Thương còn ở dưới mái trường cấp ba. Khi ra trường, Thương cũng có nghe nói thầy đã chuyển qua làm việc trên Phòng Giáo Dục, nhưng không ngờ lại được gặp thầy hôm nay. Thầy đưa ly nước trà cho Thương, rồi chậm rãi:
-Vậy là mấy năm rồi em nhỉ? Ngày ấy, thầy vẫn mong em vào Ðại Học Sư Phạm để về trường cũ nối tiếp thầy cô, vì thầy biết em có năng lực, có tâm huyết với nghề .
Thầy dừng lại, nhấp một ngụm trà:
- Nhưng em đã chọn Cao Ðẳng Sư Phạm. Em có thể chia sẻ với thầy lý do không?
Thương vén lại mái tóc, rồi nhìn thầy rất tự tin:
-Thưa thầy, suốt mười hai năm đi học, em nhận ra giai đoạn cấp hai, từ lớp sáu đến lớp chín là đoạn đời trong sáng nhất, ngây thơ nhất của đời học trò. Lứa tuổi đó không còn bé, nhưng cũng chưa lớn, đã đọng lại trong em những kỷ niệm sâu sắc, nên em thực sự muốn sống lại quá khứ của mình qua thế hệ đàn em.
Thầy nở nụ cười đầm ấm:
-Vậy ư? Em làm thầy cũng nhớ lại thuở nghịch ngợm dại khờ cấp hai. Bữa đó trên đường đi học, thầy và đứa bạn mê xem đá banh ngoài sân vận động quên cả giờ học, bị cô giáo phạt mang giấy kiểm điểm về nhà cho ba mẹ ký tên, thế là hai đứa đi lang thang đến tối mới dám về nhà chịu đòn. Còn em chắc là có vô số kỷ niệm nhỉ?
Thương hơi mắc cỡ, nhưng bạo dạn nói tiếp:
- Dạ, thật khó mà nói hết cảm giác về những tháng ngày đó. Chỉ biết rằng em đã sống hết mình, từng phút từng giây cho trường lớp, bè bạn, thầy cô. Em chỉ biết học, rồi chơi, không vương vấn, âu lo một chút gì. Và em cũng nhớ có lần đã tặng cho anh bạn lớp bên cạnh một cái ? bạt tai vì dám viết thơ tỏ tình với em, bởi vì lúc đó em mê học hơn mê chơi.
Thầy bật cười lớn:
-Trời, tội nghiệp anh chàng tuổi trẻ. Nếu có dịp em phải xin lỗi người ta đó, nhớ chưa?
Thầy đứng lên, đi ra phía sau tủ lấy ra một số giấy tờ, rồi trở lại ghế ngồi, châm thêm trà, báo cho Thương một tin bất ngờ:
- Nghe em kể chuyện, thầy quyết định đưa em về dạy tại ngôi trường cũ, thầy hiệu trưởng vẫn là thầy Triệu đấy.
Thương muốn hét to lên vì sung sướng. Còn nỗi hạnh phúc nào hơn được đứng trên bục giảng ngôi trường ngày xưa mình đã làm học trò? Không nói ra, Thương nhìn thầy Tiến bằng đôi mắt biết ơn. Nhưng Thương biết, là một nhà giáo lâu năm trong nghề, thầy hiểu rõ tâm trạng và nỗi khát khao của những người trẻ mới ra trường, nếu môi trường càng thoải mái, thuận lợi thì càng làm cho họ hứng khởi, tràn trề tâm huyết trên còn đường còn dài trước mặt.
Sau khi làm xong một số thủ tục giấy tờ, thầy tiễn Thương ra con đường cái, hai thầy trò đi dạo cho đến ngã tư, Thương mới leo lên xe đạp chạy về nhà. Thương vui sướng nhủ thầm, mình từ chối nhiệm sở ngoài Sài Gòn, mất cơ hội dạy trường nổi tiếng, nhưng về đây Thương được biết bao nhiêu điều tuyệt vời, gặp thầy Tiến cho về ngôi trường cũ, thầy hiệu trưởng vẫn còn đó, và chắc chắn một số thầy cô cũ cũng vẫn còn như xưa.
Trước ngày khai giảng, Thương đến trường trình diện với bộ quần áo đẹp nhất, với nỗi lòng háo hức bâng khuâng như thiếu nữ lần đầu hẹn hò. Thương bật cười với ý nghĩ đó, vì Thương chưa yêu nên không biết mình ví von có đúng hay không?
Cô hiệu phó đón Thương ngay cửa phòng giáo viên, nơi đang có cuộc họp chuẩn bị cho năm học mới, và đưa Thương vào phòng giới thiệu với mọi người:
- Xin các thầy cô chào đón Thương, cô giáo dạy toán mới ra trường. Thương cũng là học trò cũ của trường mình ngày xưa.
Rồi cô quay sang Thương giải thích:
- Hôm nay thầy Triệu hiệu trưởng đi họp trên quận, nhưng có dặn tôi đón tiếp cô học trò cưng của thầy cho chu đáo.
Ở dưới phòng họp, Thương nhận ra vài khuôn mặt thầy cô giáo cũ. Thương chạy đến chào hỏi, mọi người cũ mới vây quanh cô nói lời chúc mừng, đón chào cô trở về với ngôi trường này.
Chờ cho các cuộc chuyện trò lắng xuống, cô hiệu phó thông báo giờ nghỉ giải lao, rồi dẫn Thương đến gặp một thầy giáo trẻ vừa bước vào từ phía hành lang:
-Xin giới thiệu đây là cô Thương, cô giáo mới, trong khối Toán của thầy đó. Còn đây là thầy Huy, trưởng khối Toán của trường. Hai người làm quen nhau nhé .
Nói xong cô bước đi, thầy Huy bắt tay Thương:
- Hy vọng là em không quên tôi?
Thương hóm hỉnh:
- Ai mà quên được thầy giáo trẻ, hiền lành, đẹp trai mới ra trường thuở nào, bị các cô học sinh lớp chín quậy phá tưng bừng!? Em còn nhớ lớp em có nhỏ Thủy tóc quăn, mấy ngày liền đạp xe lẽo đẽo theo thầy về tận nhà, em đã mắng cho cô nàng một trận, còn nhỏ hỷ mũi chưa sạch, không lo học hành mà bày đặt đi ?mê thầy!
Thầy Huy bật cười:
- Ồ, vậy tôi phải cám ơn em vì chuyện này. Quả thật, ngày đó có lúc cô bé Thủy đã làm tôi khó xử.
- Cô nàng đó vậy mà biết yêu sớm. Vào giữa năm lớp mười một, chúng em đang bù đầu bù cổ học thi, hoặc tranh thủ giờ rảnh đi nghe nhạc xem phim, thì nó đã ?theo chồng bỏ cuộc chơỉ. Bây giờ nàng đã một nách hai con và làm bà chủ sạp gạo bên cổng xe lửa, bữa nào rảnh thầy nhớ ghé mua gạo ủng hộ Thủy nhe.
Thầy Huy hơi bối rối, đưa hai tay vào túi quần, ngước đôi kiếng cận màu trắng nhìn theo con chim đang nhảy nhót trên cành bàng ngay giữa sân. Thương đổi đề tài:
- Còn thầy, chắc gì thầy đã nhớ em học lớp nào nhỉ?
Chỉ chờ có vậy, thầy Huy nói ngay:
- Nguyễn Thị Hoài Thương học lớp 9A3, căn phòng cuối cùng trên lầu ba, đúng chưa?
Thương mở đôi mắt thật to, nhìn thầy Huy ngạc nhiên, chưa biết nói gì, thầy lại tiếp tục cho Thương bất ngờ:
- Hồi đó em ngồi ở đầu bàn cuối, dãy bên cạnh cửa sổ. Em hay mặc quần tây đen, áo sơ mi trắng hoặc áo sơ mi màu xanh đậm.
Thương reo lên:
- Ôi, thầy nhớ màu áo em mặc nữa sao?
- Bởi vì tôi nhớ có lần trong giờ toán của tôi, có anh bạn nghịch phá nào đó làm đổ cả bình mực vào chiếc áo trắng của em. Em đã khóc và nổi giận, nhưng tôi là thầy giáo trẻ chưa có kinh nghiệm, nên không có cách giải quyết thỏa đáng, em đã kéo anh bạn kia lên phòng hiệu trưởng để kiện cáo. Nghe đâu cô giáo chủ nhiệm phải họp lớp mấy lần mới xong chuyện cái áo trắng vấy mực đó, đúng không?
Thương úp mặt mình vào đôi bàn tay, che dấu niềm vui và xấu hổ:
- Sao hồi đó em dữ dằn quá thầy ơi! Anh bạn đó tên Nguyễn Tài Tư mà chúng em hay gọi là Tài Tử vì anh chàng có máu nghệ sỹ và giọng ca cải lương thiệt mùi. Sau năm học ấy vì nhà nghèo nên Tư nghỉ học, đi làm ở tiệm sửa đồng hồ ngay trước chợ Gò Vấp. Hễ lần nào em đi chợ gặp Tài Tư, là anh ta lên câu vọng cổ chọc ghẹo em: ? Ngày lại ngày qua bao mùa thương nhớ?ớ ?.Chiếc áo năm xưa, anh giữ mãi ?ớ?trong?ờ ?.lòng !?
Thầy Huy chăm chú ngắm nhìn Thương làm điệu bộ hát vọng cổ, làm Thương đỏ mặt dừng lại, rồi hai người cùng cười vang khiến con chim trên cây bàng giật mình vỗ cánh vụt bay đi. Thầy Huy hỏi:
- Thương muốn đi lên căn phòng lớp cũ chút xíu không? Cũng sáu năm rồi còn gì!
Thương bước theo thầy Huy lên cầu thang, đi bộ qua dãy hành làng dài im vắng, kỷ niệm ngày xưa ùa về làm bước chân Thương thêm ngập ngừng, xuyến xao. Ðến lớp học cũ, Thương chạy vào ngay chiếc ghế ngồi thân quen nơi cuối dãy ngoài cùng. Thầy Huy cũng ngồi bên bàn đối diện, im lặng cho Thương sống lại những ngày cũ đầy nhớ thương. Một lát sau, thầy Huy lên tiếng:
- Em có nhớ ngày cuối cùng năm học, em và mấy cô bạn sau tiệc liên hoan đã đi một vòng khắp các lớp học trong trường, xuống phòng Ban Giám Hiệu, Phòng Giáo Viên, căng- tin, rồi em òa khóc nức nở dưới cây phượng già ngay góc sân?
Thương chống tay lên cằm, mơ màng nhớ xa xôi:
- Ðúng vậy, hình như bữa đó trời mưa, mấy cánh hoa phượng nằm tả tơi dưới sân trường, làm em thêm nức nở, khóc như chưa bao giờ được khóc! Mà sao thầy nhớ nhiều về em thế, thầy đâu phải thầy chủ nhiệm của em? Hay là thầy nhớ em hoài vì chưa trừng phạt được những quậy phá của cô học trò ngỗ nghịch như con trai?
Thầy Huy lắc đầu, xoay người, nhẹ nhàng nhìn theo bàn tay Thương đang vân vê những dấu gạch khắc nguệch ngoạc trên mặt bàn gỗ:
- Em quên rồi sao? Hồi đó em là học sinh nổi bật trong trường, vừa giỏi toán lại biết làm thơ viết văn. Khi em có bài thơ đăng trên báo, thầy hiệu trưởng đã đọc ngay trước toàn trường trong giờ chào cờ đầu tuần, vì bài thơ rất đặc biệt, nói về ngôi trường của mình, với đầy đủ tên trường và tên các thầy cô trong đó.
- Vâng, nhưng lâu rồi, em không còn nhớ bài thơ nữa thầy ạ!
- Còn tôi thì vẫn nhớ một đoạn vì có tên tôi:
Cô Yến dạy Văn, thầy Huy dạy Toán
Thầy Vinh môn Anh, môn Sử thầy Huề
Môn Hóa cô Oanh, Sinh Vật thầy Thê
Thầy Hiển: Ðịa, Chính Trị: cô Mộng Ðiệp ??
Trong số đó, bây giờ chỉ còn tôi và cô Yến, thầy Vinh, thầy Thê. Còn những người khác, kẻ theo chồng bỏ nghề, kẻ thì chuyển trường khác, và có người đã đi xuất cảnh bên trời Tây. Cuộc đời mới đó mà đã có bao đổi thay.
Thầy chợt nhìn sâu vào mắt Thương, hỏi nhỏ:
- Còn em, cảm giác ngày trở về hôm nay như thế nào?
Thương sửa lại tư thế ngồi, mắt vẫn không rời chiếc mặt bàn nâu bóng vì thời gian, làn môi Thương run run với nỗi xúc động chợt dâng trào:
-Ngày xưa Từ Thức trở về chốn cũ với hoài niệm xót xa vì cảnh vật đã đổi thay, còn em về nơi đây, cảnh cũ cảnh mới, người cũ người mới, tất cả như đan xen với nhau cho em tìm lại được những kỷ niệm ngày nào. Cây phượng già còn đó, mấy cây bàng dưới mái hiên vẫn xanh tươi màu xanh hy vọng, trường cũ thầy xưa còn đây, có chăng là những khuôn mặt học trò mới lạ, em càng thấy náo nức đợi chờ. Chưa bao giờ em thấy mình thực sự hạnh phúc như hôm nay.
Tiếng chuông báo giờ giải lao đã hết, Thương cùng thầy Huy vội trở xuống phòng họp, bỏ lại căn phòng vắng những dư âm của câu chuyện còn đang dở dang.
Khi buổi họp kết thúc, Thương đi bộ ra bãi đậu xe thì thầy Huy bước nhanh đến, ngập ngừng:
-Thương à, tôi chưa làm xong nhiệm vụ đưa Thương tìm lại chốn xưa, đúng không?
Thương nhíu mày, nghiêng đầu hỏi:
- Vậy còn nơi nào nữa em chưa ghé thăm?
Thầy Huy đưa tay chỉ ra ngoài cổng trường:
- Quán chè đá đậu ngày xưa em và nhóm bạn hay ăn sau buổi tan trường. Chủ quán vẫn còn đó, nay bán thêm vài món khác như nước mía, cà phê. Tôi mời em một ly chè, được không?
Vẫn còn lâng lâng như trong giấc mơ, Thương bước qua cánh cổng sắt mầu nâu rỉ sét, nơi mà những lần đi học muộn, Thương phải đứng nhìn qua cổng này năn nỉ chú bảo vệ cho Thương vào trường. Quán chè đá đậu chẳng hề đổi thay, Thương thấy mình là một cô bé tuổi mười lăm đang ngồi trên chiếc ghế nhỏ xíu trong quán năm xưa, bụng cồn cào chờ ly chè đá ba màu ngọt lịm nơi đầu lưỡi. Thầy Huy nhấm nháp ly café , ngắmThương thành thục đón lấy ly chè, quậy lớp đá bào ở trên với lớp đậu và nước dừa phía dưới đáy ly, rồi lấy muỗng chè đưa vào miệng với cả sự thưởng thức say mê, tưởng như không còn gì ngon hơn trên cõi đời này. Thầy Huy biết, Thương không chỉ đang ăn chè, mà còn đang gặm nhấm những cảm giác hạnh phúc ngọt ngào của ngày hội ngộ quá khứ.
Thương ngước mặt lên, bắt gặp ánh mắt thầy Huy nhìn Thương rất gần:
- Thương này!
- Dạ?
- Kể từ hôm nay, em đừng gọi tôi là thầy nữa nhe, vì Thương đâu còn là học trò của tôi nữa. Vả lại, tôi cũng chỉ lớn hơn Thương sáu tuổi, và bây giờ chúng mình lại là đồng nghiệp, phải không?
Thương không trả lời, nhìn qua bên kia đường phía ngôi trường. Cánh cổng đã đóng yên, nhưng vài ngày nữa sẽ tưng bừng rộn ràng đón học sinh đến trường cho năm học mới. Một vạt nắng yếu ớt buổi chiều chiếu lung linh trên những tán phượng trên bầu trời xanh trong, bồng bềnh êm ái như đôi mắt thầy Huy đang nhìn Thương đợi chờ.
Thương thấy mình trong ngày khai giảng, dịu dàng, thướt tha với bộ áo dài trắng mới may, gặp gỡ những khuôn mặt học sinh đầy sức sống, Thương sẽ được sống lại tuổi thơ của mình. Quá khứ và hiện tại vẫn là một, Thương sẽ tiếp tục yêu thương chốn này, yêu mến lũ học trò, yêu mến cả những vật vô tri vô giác đã từng cho Thương những rung động bồi hồi khi nhớ về: chiếc bục giảng, bàn ghế, lớp học, sân trường, hàng cây ?
Và có thể, có một tình yêu mới đang bắt đầu.
Edmonton - Canada - Tháng 7/2022
KIM LOAN

Dân số Việt Nam qua các thời kỳ

Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn và là một quá trình tương đối dài. Nhà nước Xích Quỷ tương truyền hình thành năm 2879 TCN, với vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương. Tuy nhiên, các thư tịch cổ Trung Quốc chỉ ra rằng nhà nước chính thức đầu tiên, Văn Lang, ra đời khoảng đầu thế kỷ 7 TCN, thời Trang Vương nhà Đông Chu.
Do vấn đề lịch sử phức tạp, quá trình xâm lăng kéo dài nên các tài liệu cổ về dân số Việt Nam còn lại không nhiều. Dân số của các thời kỳ chỉ có thể xác định ở mức tương đối, không thể xác định chính xác năm nào. Các tư liệu nhân khẩu phần lớn dựa vào các bộ chính sử của các triều đại và các ghi chép của các giáo sĩ, thương nhân phương Tây. Do nô tì, tăng ni, đạo sĩ, binh lính không phải nộp thuế nên các thống kê của triều đình thường không liệt kê họ vào các tài liệu nhân khẩu. Trong giai đoạn nội chiến Nam – Bắc triềuTrịnh – Nguyễn phân tranh, chính quyền gặp nhiều khó khăn trong việc thống kê dân số nên các số liệu thường phải ước đoán.

Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc

Thời Hùng Vương, Việt Nam hoàn toàn không có các tài liệu về việc thống kê dân số chính thức, có thể là do các đời vua Hùng không tiến hành thống kê nhân khẩu hoặc trải qua nghìn năm Bắc thuộc với nhiều lần chiến loạn nên các tài liệu thư tịch cổ bị thất lạc mất, không thể tìm ra được. Các nhà sử học, cả phong kiến và đương thời, ước tính đến cuối thời Văn Lang, Việt Nam có khoảng 1.000.000 dân,[cần dẫn nguồn] chủ yếu phân bố ở khu vực trung hạ du sông Hồng và sông Mã.
Năm 258 TCN, vua tộc Âu Việt là Thục Phán đem quân đánh bại vua Hùng đời thứ 18, sáp nhập lãnh thổ Văn Lang của người Lạc Việt, hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt hợp nhất thành một, Thục Phán lên ngôi vua lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng phái tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân đi bình định các dân tộc Bách Việt, nhưng sau tướng Đồ Thư bị giết trong 1 cuộc tập kích, quân Tần buộc phải bãi binh do chủ tướng tử trận và các cuộc bạo loạn ở Trung nguyên. Sau cuộc chiến, hơn 10 vạn quân Tần thiệt mạng và khoảng 10 vạn bị quân Âu Lạc bắt làm tù binh, bị đày đi khai hoang ở những miền xa xôi.
Sau khi nhà Tần suy yếu và sụp đổ, phương Bắc chìm trong chiến loạn trong nhiều năm. Các thế lực quân phiệt, tiêu biểu là Hán Lưu Bang và Sở Hạng Vũ, giao tranh quyết liệt để tranh giành đất đai. Dân chúng thường bị vạ lây sau các trận chiến, do các thủ lĩnh quân sự thường tàn sát dân chúng khắp vùng nếu đối phương kháng cự quyết liệt. Tiêu biểu là việc Lưu Bang đã làm cỏ bách tính ở Dĩnh Dương, còn Hạng Vũ đã giết sạch dân ở Tương Thành và tàn sát 20 vạn hàng binh nước Tần. Do đó có nhiều người dân đã chạy xuống phương nam để lánh nạn, mà đa phần là đến vùng Lưỡng Quảng (thuộc nước Nam Việt của Triệu Đà, tướng cũ của nhà Tần), tuy nhiên có một bộ phận chạy xuống tận Âu Lạc, sống chung với người Bách Việt. Theo ước tính, thời Âu Lạc Việt Nam có khoảng 70–80 vạn dân, bao gồm toàn bộ dân cư Lạc Việt cũ, dân cư Âu Việt mới sáp nhập và các nạn dân từ phương bắc chạy đến để tránh chiến loạn.

Thời kỳ Bắc thuộc

Từ thời nhà Triệu cho đến thời kỳ Nam – Bắc triều
Sau khi nhà nước Âu Lạc bị Triệu Đà tiêu diệt năm 179 TCN, lãnh thổ và dân số Việt Nam bị sáp nhập vào các triều đại Trung Hoa, do đó việc thống kê nhân khẩu Việt Nam giai đoạn này phải dựa trên các ghi chép trong các bộ thư tịch cổ của Trung Quốc.
Triệu Đà chia lãnh thổ Âu Lạc cũ làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Bên dưới cấp quận không có đơn vị hành chính khác. Sử sách ghi nhận tại hai quận này có 60 vạn dân thời Triệu.[cần dẫn nguồn]
Đa số cư dân Nam Việt là người Bách Việt cũ cùng khoảng 100 ngàn người Hán di cư từ phía Bắc, nhóm này nắm giữ hầu hết chức vụ chủ chốt trong chính thể Nam Việt. Họ bao gồm con cháu của các thương gia, binh sĩ Tần được gửi xuống chinh phục phía nam với những thanh nữ phục vụ nhu cầu tình dục trong quân đội, các lại thuộc và cả tội phạm nhà Tần bị lưu đày. Người Âu Việt sinh sống tại khu vực phía tây Quảng Đông, họ tập trung chủ yếu dọc lưu vực các con sông như Tầm Giang, Tây Giang và khu vực phía nam sông Quế Giang. Những con cháu của Dịch Hu Tống, thủ lĩnh Âu Việt bị quân Tần giết vẫn nắm giữ vai trò là thủ lĩnh của các thị tộc Âu Việt. Đến khi Nam Việt bị Hán diệt, khu vực quận Quế Lâm đã có khoảng vài trăm ngàn người Âu Việt sinh sống. Các thị tộc Lạc Việt sinh sống ở khu vực ngày nay là nam Quảng Tây và bắc Việt Nam, bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông) và vùng tây nam Quý Châu. Họ tập trung tại các lưu vực Tả Giang và Hữu Giang Quảng Tây, đồng bằng sông Hồng ở bắc Việt Nam, và lưu vực sông Bàn ở Quý Châu.
Theo Tiền Hán thư thì số dân 7 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời thuộc Hán thuộc vào năm 2 như sau[1]:
  • Quận Nam Hải có 6 huyện, 19.613 hộ, 94.253 người.
  • Quận Uất Lâm có 12 huyện, 12.415 hộ, 71.162 người.
  • Quận Thương Ngô có 10 huyện, 15.398 hộ, 146.160 người.
  • Quận Hợp Phố có 5 huyện, 30.796 hộ, 78.980 người.
  • Quận Giao Chỉ có 10 huyện, 92.440 hộ, 746.237 người.
  • Quận Cửu Chân có 7 huyện, 35.743 hộ, 166.013 người.
  • Quận Nhật Nam có 5 huyện, 15.460 hộ, 69.485 người.
Thời điểm Hai Bà Trưng khởi nghĩa (năm 40), ước tính Việt Nam có khoảng gần 2 triệu nhân khẩu.
Năm Quang Hòa thứ 7 (năm 184 SCN) đời Linh Đế nhà Đông Hán, quận Giao Chỉ có 11 huyện, 209.304 hộ, 1.387.144 nhân khẩu; quận Cửu Chân có 5 huyện, 93.026 hộ, 419.780 nhân khẩu; quận Nhật Nam có 5 huyện, 43.628 hộ, 138.952 nhân khẩu.
Sau khi nhà Hán sụp đổ, ở phương bắc hình thành cục diện Tam Quốc, lãnh thổ Việt Nam tương ứng với Giao Châu của Đông Ngô, do nhà Ngô đã tách Giao Châu cũ thành Giao Châu mới (Bắc và Trung Bộ Việt Nam) và Quảng Châu (bao gồm Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay). Ngay từ cuối thời Đông Hán khi loạn Hoàng Cân bùng phát, chiến tranh đã lan ra khắp Trung nguyên kéo dài suốt hơn trăm năm cho đến khi Tây Tấn tiêu diệt Đông Ngô, thống nhất thiên hạ. Trong suốt khoảng thời gian đó, chiến loạn triền miên dẫn đến dân số của Trung nguyên sụt giảm nghiêm trọng, và dân số của Giao Châu cũng bị kéo theo xu thế này. Theo ghi chép, khi nhà Tấn diệt Ngô đã tiến hành điều tra dân số toàn quốc thì đất Giao Châu chỉ còn hơn 53.278 hộ, 241.532 nhân khẩu. Cần chú ý rằng ở thời điểm này quận Nhật Nam đã bị Lâm Ấp chiếm mất nên đất Giao Châu thuộc Tấn chỉ còn ba quận Hợp Phố, Cửu Chân và Giao Chỉ, và cũng do lúc này chiến loạn mới dứt, thiên hạ chưa ổn định nên việc thống kê có thể không chính xác dẫn đến các con số ít hơn thực tế, khoảng một nửa hoặc một phần ba.
Sau khi nhà Tây Tấn sụp đổ do Loạn bát vương và biến động Ngũ Hồ loạn Hoa, Việt Nam lần lượt thuộc về Đông Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Nam Lương, Nam Trần. Trong thời kì Nam-Bắc triều, chính trị phương bắc biến loạn liên tục, giao tranh liên miên nên có nhiều bộ phận dân cư chạy về phương nam, đa phần lưu trú ở Quảng Châu, một bộ phận chạy xuống tận Giao Châu, nhưng không nhập tịch nên các thống kê của quan phủ không đề cập đến họ. Năm 471 (thời Nam Bắc triều), nhà Lưu Tống tách khu vực Hợp Phố ra khỏi Giao Châu và hợp với một số quận khác để lập ra Việt Châu. Khi đó Giao Châu chia ra thành 8 quận, bao gồm: Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương, Tống Bình (Tống thư chỉ liệt kê tên gọi của 7 quận).

Thời Tùy - Đường

Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên kiến quốc, đến năm 589 thì quân Tùy nam hạ diệt Trần, lãnh thổ Việt Nam lại chịu sự cai trị của nhà Tùy. Năm Vũ Đức thứ 5 (622), nhà Đường sau khi lên thay nhà Tùy, đã đặt ra tổng quản phủ Giao Châu (Giao Châu tổng quản phủ), quản lãnh 10 châu: Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu, Long Châu, bao trùm miền Bắc Việt Nam. Quan đứng đầu phủ Giao Châu là đại tổng quản Khâu Hòa, vốn là thái thú Giao Chỉ.
Năm 679, Giao Châu đô đốc phủ đổi thành An Nam đô hộ phủ, chia làm 12 châu, trong đó có Giao Châu. Giao Châu mới bao gồm 8 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình và chỉ là một phần nhỏ của miền Bắc Việt Nam. 11 châu còn lại là: Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái ChâuHoan Châu, Diễn Châu, Trường Châu. Quan cai trị An Nam đô hộ phủ gọi là đô hộ. Theo số liệu thống kê của nhà Đường, ở quận Giao Chỉ có 9 huyện 60.112 hộ; quận Cửu Chân có 7 huyện 33.286 hộ; quận Nhật Nam có 8 huyện 12.047 hộ, quận Ninh Việt ở phía đông bắc, gồm Khâm châu không rõ số dân; 3 quận mới chiếm của Lâm Ấp là quận Tỷ Ảnh có 4 huyện 4.305 hộ, quận Hải Âm có 4 huyện 2.405 hộ, quận Tượng Lâm có 4 huyện 2.457 hộ.
Đến trung kì thời Đường, nước Nam Chiếu của người Bạch nổi lên mạnh mẽ, trong khi nhà Đường lại suy yếu vì những xung đột nội bộ. Đường và Nam Chiếu thường xuyên xung đột, đỉnh điểm là việc quân Đường đại bại ở Hạ Quan, quân Nam Chiếu thừa cơ tỏa đi chiếm toàn bộ các vùng đất thuộc Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên ngày nay. Đồng thời, quân Nam Chiếu cũng thường xuyên xuôi dòng sông Hồng đánh phá An Nam thuộc Đường. Mỗi lần đánh phá An Nam, quân Nam Chiếu đều tàn sát dân địa phương, cướp đoạt vô số của cải. Nhà Đường tỏ ra bất lực và quân Đường chỉ quay lại khi quân Nam Chiếu đã rút đi.
Năm 863, Đoàn Tù Thiên lại tiến vào An Nam, đánh bại quân Đường. Sái Tập bị giết. Quân Nam Chiếu chiếm đóng và cướp phá, giết hại tới 15 vạn người Việt.[2] Sau đó vua Nam Chiếu sai Đoàn Tù Thiên ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Nhà Đường phải di chuyển Phủ Đô hộ An Nam đến Hải Môn.
Năm 864, nhà Đường sai Cao Biền làm An Nam đô hộ kinh lược chiêu thảo sứ sang đánh Nam Chiếu. Năm 865, Cao Biền tiến đến Nam Định, nhân lúc quân Nam Chiếu đang gặt lúa, bất ngờ đánh úp, phá tan quân Nam Chiếu. Tới năm 867, Cao Biền đánh bại hoàn toàn người Nam Chiếu tại An Nam, chiếm lại thành Tống Bình, giết chết Đoàn Tù Thiên, chém hơn 3 vạn quân Nam Chiếu. Từ đó sự xâm lấn của Nam Chiếu mới chấm dứt.
Nhà Đường chia nhỏ thành các phủ, dưới phủ là huyện rồi đến hương xã. Các xã cũng không đều nhau, có hạng lớn thì 40- 60 hộ, hương nhỏ từ 70-150 hộ, lớn từ 160- 540 hộ.[cần dẫn nguồn]
Năm 863, Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, cho Cao Biền làm Tiết độ sứ, và sau là Cao Tầm, Tăng Cổn, Tạ Triệu, An Hữu Quyền, Chu Toàn Dục và Độc Cô Tổn. Năm 905, Độc Cô Tổn bị Chu Ôn đày đi Hải Nam và giết chết do không cùng vây cánh. Trong lúc nhà Đường chưa kịp cử quan cai trị mới sang trấn nhậm, một hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm lấy thủ phủ Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Chu Ôn đang mưu cướp ngôi nhà Đường, đã nhân danh vua Đường thừa nhận Khúc Thừa Dụ. Từ đó người Việt bắt đầu khôi phục quyền tự chủ. Tĩnh Hải quân lúc này gồm có 12 châu là Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Thang, Trường, Chi, Vũ Nga, Vũ An, Ái, Hoan, Diễn. Lãnh thổ 12 châu này bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, kéo dài tới phía bắc Hoành Sơn, thêm một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên sang thời nhà Ngô (939-967), lãnh thổ Tĩnh Hải quân chỉ còn 8 châu là Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Không có ghi chép rõ ràng về dân số Việt Nam thời kì này.

Thời kì độc lập và tự chủ

Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Từ sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ, người Việt bắt đầu khôi phục quyền tự chủ. Đương thời, phương bắc rơi vào thời kì Ngũ Đại Thập Quốc, giao tranh liên miên không dứt. Ngay từ cuối thời Đường khi loạn Hoàng Sào bùng nổ làm mấy trăm vạn bá tính Giang Nam bỏ mạng, đã có rất nhiều người chạy xuống phương nam để tránh chiến họa, trong đó có cả nhiều thủ lĩnh Trung Hoa chạy loạn xuống Tĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các sứ quân như Đỗ Cảnh Thạc và sứ quân Trần Lãm. Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 70.000 quân sang nước Việt đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả, không đem quân quyết chiến mà lại lấy vợ Việt và sinh ra ba con trai sau này là các sứ quân Nguyễn KhoanNguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu. Binh sĩ đi theo phần nhiều cũng ở lại bản địa, lấy vợ sinh con, không về bắc nữa.
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đến mùa xuân năm 939 thì chính thức xưng vương, tức là Tiền Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương thị làm hoàng hậu; đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Dưới thời Ngô vương, dân số Việt Nam có khoảng 3.600.000 người. Năm 944, Ngô vương băng hà, Việt Nam rơi vào loạn 12 sứ quân. Các sứ quân liên tục tranh giành nhau, giao chiến không ngừng suốt nhiều năm liền. Binh lính và dân chúng bỏ mạng vô số.
Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh trấn áp quần hùng, thống nhất thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Cả nước có khoảng 3.100.000 người[3]
Năm 981, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập ra nhà Tiền Lê, chỉ huy quân dân đánh tan quân Tống xâm lược, đồng thời dẹp tan các thế lực chống đối trong nước.
Ước tính khi Ngô vương giành được độc lập, Việt Nam có khoảng 3.5 triệu nhân khẩu.[cần dẫn nguồn] Đến khi Lê Hoàn đánh tan quân Tống, thiên hạ trải qua nhiều năm chinh chiến, từ loạn 12 sứ quân cho đến họa xâm lăng và nhiều năm thanh trừng các thế lực chống đối trên toàn quốc của vua Lê Đại Hành, cả nước chỉ còn khoảng hơn 2,1 triệu người vào năm 1000 thời Nhà Tiền Lê.Theo Nguyễn Trãi thì thời Tiền Lê có tổng số có trên 5 triệu đinh, nhưng các sử gia cho rằng con số này cao hơn thực tế.[4]

Thời Lý - Trần

Sau khi Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân năm 1005, con là Long Việt lên ngôi, xưng Lê Trung Tông. Trung Tông ở ngôi được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đĩnh giết chết để cướp ngôi. Đương thời chính sự thối nát, nhà vua tàn bạo hoang dâm nên lòng người không phục. Năm 1009, Ngọa Triều qua đời lúc mới 24 tuổi, Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn được quần thần tôn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý, đặt niên hiệu Thuận Thiên. Năm 1054, Lý Thái Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt, tiến hành đại xá thiên hạ, đồng thời thống kê dân số toàn quốc được hơn 3.790.000 nhân khẩu.[cần dẫn nguồn]
Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông. Triều Trần chính thức bước lên vũ đài lịch sử thay thế triều Lý. Thời Trần, các nam đinh được chia thành ba hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi).[cần dẫn nguồn]
Khi quân Mông Cổ đánh bại nhà Nam Tống, một số quan lại địa phương nhà Tống đã quy phụ nhà Trần, như trường hợp Hoàng Bính đem dâng phủ Tư Minh (nay là Bằng Tường) năm 1263, và có một lượng lớn dân chúng và quân binh nhà Tống chạy từ phương bắc xuống Việt Nam xin tị nạn để tránh các cuộc thảm sát của quân Mông Cổ. Nhà Trần đem dân Tống đi phân bố đến các nơi để khai khẩn đất hoang, mở rộng sản xuất, còn các đạo quân Tống rút chạy đến Việt Nam đều được phân bổ vào các đội quân của triều đình, với số lượng không quá lớn để tránh họ làm phản. Thủ lĩnh của các đạo quân này vẫn là người Tống, ví dụ như tướng Triệu Trung chỉ huy 4000 quân Tống dưới quyền Trần Nhật Duật đã tham gia trận Hàm Tử. Người Hán trong quân Mông Nguyên nhìn thấy quân Tống thì đều tưởng nhớ cố quốc nên không còn ý chí chiến đấu, đều hàng cả.
Quân Mông Nguyên khi xâm chiếm Đại Việt thường tàn sát dân chúng và binh lính Đại Việt bị bắt rất tàn bạo, rất nhiều người chết dưới tay chúng. Do có nạn dân và quân binh nước Tống tị nạn bù đắp vào tổn thất của Đại Việt trong chiến tranh nên tổng nhân khẩu toàn quốc sau ba lần quân Mông Nguyên xâm lược về cơ bản không thay đổi mà chỉ ở khoảng 4.500.000 nhân khẩu mà thôi.

Thời nhà Hồ và thuộc Minh

Năm 1400, nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, tiến hành cải cách quy mô lớn. Các cuộc điều tra dân số thời nhà Hồ thống kê được con số 1.039.045 hộ, tức là khoảng hơn 4.000.000 người trên cả nước.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên con số thực tế có thể cao hơn khoảng 50% do thời kì này tương đối hỗn loạn sau cuộc chính biến và chính quyền thường không thống kê được những người làm nghề kép hát và những người lưu vong từ cuối thời nhà Trần do các cuộc chiến loạn giữa các thế lực địa phương và khi quân Chiêm Thành tấn công ra Thăng Long.
Năm 1406, quân nhà Minh xâm lược nước Việt. Quân đội nhà Hồ phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề trước sức tấn công như vũ bão của quân giặc. Quân Minh dưới quyền Trương Phụ cũng tàn sát dân chúng và tù binh. Sử miêu tả "làng mạc đìu hiu hoang vắng, trăm dặm không thấy bóng người, khói lửa chiến tranh bao trùm khắp nơi". Sau cơn đại nạn, dân số Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng, ước tính chỉ còn quá nửa.
Người Minh dẫn số liệu của nhà Hồ cho thấy họ đã chiếm được 48 phủ, châu, 168 huyện, 782.250 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền. Theo Minh sử, năm 1408 nhà Minh kiểm soát 3.120.000 người và 2.087.500 người Man trên đất Đại Ngu cũ.

Thời Hậu Lê

Thời Lê sơ
Sau khi đánh đuổi quân Minh xâm lược, khôi phục chủ quyền, Lê Thái Tổ rất quan tâm chú ý đến việc phục hồi sức dân, tái ổn định đất nước sau 20 năm chiến loạn. Ông đã cho quân lính trở về nhà tham gia sản xuất, chỉ giữ lại 10 vạn quân trong tổng số 35 vạn để canh giữ đất nước. Triều đình đem những tù binh người Minh vào phương nam khai khẩn đất hoang, tăng cường sản xuất. Nhờ những chính sách đó mà dân số Việt Nam tăng mạnh trở lại
Năm 1490, Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính trên toàn quốc, đổi phủ thừa tuyên thành các xứ. Như vậy trên cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không quá 500 hộ, nếu nhiều hơn 700 hộ thì sẽ tách ra làm hai xã nhỏ. Theo cánh tính này thì đến năm 1490, toàn quốc có khoảng 8 triệu nhân khẩu.[cần dẫn nguồn][5]

Thời nhà Mạc và Lê Trung hưng

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc.Vào năm 1540,dân số thống kê được khoảng hơn 3.500.000 nhân[6] khẩu trong vùng quản lý của Nhà Mạc.Còn khu vực của nhà Lê Trung Hưng quản lý vẫn chưa có nguồn thống kê.
.Vài năm sau, chiến tranh Nam Bắc triều nổ ra và lan ra mạnh mẽ trên cả nước. Cuộc nội chiến kéo dài 60 năm khiến cho cả một vùng Nghệ An xơ xác điêu tàn "trăm dặm không thấy bóng người". Các nhà nghiên cứu tổng kết: trong 60 năm chiến tranh (1533-1592) giữa Lê và Mạc đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Sau mỗi trận đánh, lực lượng mới lại được huy động để bù đắp cho lực lượng tổn thất trên chiến trường.
Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân lao động. Sản xuất bị đình trệ, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế toàn quốc. Không những nông dân, những người thợ thủ công cũng chịu mức thuế khóa nặng nề để cung ứng cho cuộc chiến.
Tại các khu vực chiến trận tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang. Năm 1592, quân Nam triều chiếm được Thăng Long, nhà Mạc rút về cát cứ Cao Bằng mãi đến tận năm 1677 mới bị diệt. Dân gian còn lưu lại những câu ca dao nói về sự khổ cực của nhân dân trong việc lao dịch, quân ngũ vì chiến sự ở Cao Bằng:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng
Ngay sau khi kết thúc cục diện Nam Bắc triều đã cho thấy có khoảng hơn 2-3 triệu người gồm dân thường và bình lính
Năm 1750, Đàng Trong thống kê được khoảng 1.500.000 người[7], còn Đàng Ngoài là khoảng gần 4.500.000[8] người với tổng dân số là hơn 6 triệu người thời Nhà Lê trung hưng

Thời nhà Nguyễn

Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, nước Đại Việt có 5.780.000 người. Đến năm 1836 thì vua Minh Mạng hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện nay còn lưu giữ được 10.044 tập gồm 15.000 quyển địa bạ), là kho tàng vô giá để mô tả cương vực nước Việt ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng. Dân số nhà Nguyễn thống kê được là 7.764.128 người.[cần dẫn nguồn]
Năm 1858, quân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, đến năm 1883 thì hoàn tất. Tính chung Bắc Kì có 37 phủ, 88 huyện, 38 châu, gồm 1264 tổng, 10105 xã, 29 mường, 2141 bản và 4 đạo quan binh ở vùng biên giới. Trung Kì có 3 đạo, 33 phủ, 58 huyện, 541 tổng, 9093 xã và 6 thành phố. Nam Kì có 78 quận, 197 tổng Kinh và 10 tổng Thượng, 1470 xã.
Năm 1870, Việt Nam có khoảng 10.000.000 người, đến năm 1901 thuộc Pháp là 13.000.000 và tăng lên 22.600.000 vào năm 1943.

Thời hiện đại

Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Năm 1945, cuộc Cách mạng tháng Tám bùng nổ và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau chiến thắng Điện Biên 1954, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Ước tính có khoảng 2 triệu người (đa số theo Công giáo) đã di cư từ miền Bắc vào miền Nam. Năm 1962, Việt Nam có khoảng 33.275.000 người với 17.000.000 người ở miền Bắc và 16.275.000 người ở miền Nam (đã cộng 2 triệu di dân). Miền bắc có khoảng 19 đến 21 triệu người. (Chú ý: Thời kỳ 1951 - 1957 tăng 753 nghìn người/năm hay tăng 3,03%/năm)[cần dẫn nguồn]
Trong giai đoạn 1955-1975, cả hai miền đều khuyến khích sinh đẻ nhằm gia tăng dân số và bù đắp cho những tổn thất về người trong chiến tranh. Các nguồn khác nhau đưa ra các con số thống kê khác nhau về tổn thất nhân mạng trong cuộc chiến, dao động ở mức 2-4 triệu người chết cùng hàng triệu người khác bị thương tật, tàn phế và nhiễm độc. Tuy vậy, dân số Việt Nam vẫn tăng thêm rất nhanh (khoảng 3% mỗi năm) do tỷ lệ sinh tăng.[cần dẫn nguồn]

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Tháng 4 năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có 49.160.000 người, sau khi trừ đi hết số người vượt biên và số tù binh đang bị giam giữ cải tạo. Dân số miền nam trước khi bầu cử thống nhất chỉ hơn 19 triệu, còn miền bắc lên đến 30 triệu.
Dân số trung bình của Việt Nam năm 2008 đã tăng 70.576 nghìn người so với năm 1921 hay cao gấp trên 5,5 lần, bình quân 1 năm tăng 811,2 nghìn người, tương đương mức tăng 1,98%/năm.[9]
Trong đó:
- Thời kỳ 1921 - 1943 tăng 319,5 nghìn người/năm, tương đương mức tăng 1,71%/năm;
- Thời kỳ 1943 - 1951 tăng 56,1 nghìn người/năm hay tăng 0,25%/năm, với nguyên nhân chủ yếu do hơn 2 triệu người bị chết đói năm 1945 và số người bị chết trong chiến tranh.
- Thời kỳ 1951 - 1957 tăng 753 nghìn người/năm hay tăng 3,03%/năm;
- Thời kỳ 1957 - 1976 tăng 1.135,8 nghìn người/năm hay tăng 3,08%/năm;
- Thời kỳ 1976 - 1985 tăng 1.190,2 nghìn người/năm hay tăng 2,21%/năm;
- Thời kỳ 1985 - 2008 tăng 1.142,9 nghìn người/năm hay tăng 1,60%/năm;
riêng thời kỳ 2000 - 2008 tăng 1.065,6 nghìn người/năm, tương đương mức tăng 1,31%/năm.
Năm 1994, trên lãnh thổ Việt Nam có tổng cộng 72.509.500 người, và tăng lên đến 80.930.200 người vào năm 2003. Vào lúc 2h45p ngày 1/11/2013, bé Nguyễn Thị Thùy Dung ở thôn Hoàng Xá, xã Nam Chính, huyện Nam Sách, Hải Dương đã cất tiếng khóc chào đời tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương[10], trở thành công dân thứ 90 triệu của Việt Nam[11].

Dân số Việt Nam hiện tại

Lưu ý: các số liệu dưới đây sẽ được cập nhật hằng năm.
Tính đến ngày 31 ngày 12 năm 2023, dân số của Việt Nam là khoảng 100.352.192 người [12]theo số liệu mới nhất từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2022, hiện chiếm khoảng 1,24% dân số thế giới và đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ; đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, với 38,05% dân số sống ở thành thị (37.198.539 người vào năm 2019). Độ tuổi trung bình ở Việt Nam là 33,2 tuổi (2024). Mật độ dân số của Việt Nam là 321 người/km² vào năm 2024.

Tham khảo

  1. ^ “Hán thư, Địa lý chí, quyển 28 hạ”.
  2. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 361
  3. ^ Nguyễn Trãi: Toàn tập. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 1976. tr. 213.
  4. ^ Đào Tố Uyên, sách đã dẫn, tr 30
  5. ^ “Nhà Lê sơ”, Wikipedia tiếng Việt, 21 tháng 4 năm 2024, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2024
  6. ^ “Nhà Mạc”, Wikipedia tiếng Việt, 7 tháng 9 năm 2024, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2024
  7. ^ “Nhà Lê trung hưng”, Wikipedia tiếng Việt, 13 tháng 5 năm 2024, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2024
  8. ^ “Nhà Lê trung hưng”, Wikipedia tiếng Việt, 13 tháng 5 năm 2024, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2024
  9. ^ “Dân số Việt Nam qua các thời kỳ”.
  10. ^ “Nguyễn Thị Thùy Dung - công dân thứ 90 triệu của Việt Nam”. Báo Thanh Niên. 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  11. ^ “Nguyễn Thị Thùy Dung - công dân thứ 90 triệu của Việt Nam”. Tuổi Trẻ Online. 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  12. ^ “Dân số Việt Nam 100,3 triệu người”.
  • Viện Sử học (2001), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  • Đào Tố Uyên chủ biên (2008), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Đại học sư phạm